Nhận hơn 235 tỷ đồng bán tín chỉ carbon rừng, Quảng Bình lúng túng chưa biết chi như thế nào do vướng quy định

Quy định chồng chéo, chưa sát thực tế

Trao đổi với PV báo Dân Việt, ông Đỗ Minh Cừ – Giám đốc Ban quản lý rừng phòng hộ huyện Quảng Ninh (tỉnh Quảng Bình) cho biết: “Đơn vị đang quản lý, bảo vệ hơn 52.000 ha rừng. Năm 2023, đơn vị được chi trả 8,2 tỷ đồng tiền bán tín chỉ carbon.

Với số tiền này, đơn vị chi 10% nguồn kinh phí được phân bổ cho hoạt động quản lý, bảo vệ rừng, như: mua sắm trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác quản lý, hỗ trợ xăng dầu cho xe, thuyền khi tuần tra truy quét… Số còn lại sẽ hỗ trợ người dân trên địa bàn tham gia bảo vệ rừng và xây dựng các mô hình sinh kế.

“Số tiền đơn vị nhận được khá lớn trong khi lực lượng bảo vệ rừng của đơn vị đều là viên chức, hưởng lương từ ngân sách nhà nước nên không thể nhận hỗ trợ từ nguồn kinh phí này.

Phần lớn diện tích rừng của đơn vị khoán cho người dân bảo vệ từ Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I với số tiền 400.000 đồng/ha/năm nên cũng không thể hỗ trợ thêm”, ông Đỗ Minh Cừ chia sẻ.

Chi trả kinh phí từ bán tín chỉ carbon rừng ở Quảng Bình: Quy định chồng chéo, chưa sát thực tế - Ảnh 1.

Một chuyến kiểm tra công tác bảo vệ rừng của lãnh đạo UBND tỉnh Quảng Bình. Ảnh: Trần Anh

Cùng quan điểm, ông Hoàng Trọng Đức – Chủ tịch UBND xã Trường Sơn (huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình) cho biết: “Địa phương đang quản lý, bảo vệ hơn 30.000 ha rừng. Số tiền nhận được từ chi trả kinh phí bán tín chỉ carbon khá lớn tuy nhiên lại chồng chéo với các khoản chi khác của ngân sách nhà nước nên chưa biết làm thế nào”.

Còn ông Lương Sỹ Trình – Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Lâm Công nghiệp Long Đại (Quảng Bình) cho hay: “Diện tích rừng tự nhiên mà công ty được chi trả từ việc bán tín chỉ carbon là 57.937 ha thuộc vùng sâu, vùng biên giới Việt Nam – Lào, không có cộng đồng sinh sống trong rừng hoặc chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ đồng bào dân tộc thiểu số sống ven rừng nên không thể thực hiện phương án giao khoán cho cộng đồng cùng tham gia quản lý bảo vệ rừng với công ty”.

Theo ông Lương Sỹ Trình, Nghị định 107/2022/NĐ – CP quy định chi trả kinh phí cho cộng đồng có tham gia quản lý rừng với công ty là không thực hiện được. Trong khi, công ty là doanh nghiệp nhà nước, công tác quản lý bảo vệ rừng được đảm trách bởi lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách là cán bộ, công nhân viên của công ty, hình thức khoán là khoán theo công việc.

Để quản lý bảo vệ 57.937 ha, công ty đã phải thường xuyên biên chế gần 100 nhân viên bảo vệ rừng chuyên trách, bình quân 600 đến 700 ha/người. Theo nghị định nói trên, lực lượng quản lý bảo vệ rừng chuyên trách không thuộc đối tượng được chi trả kinh phí.

Cần sớm có phương án tháo gỡ

Các chủ rừng được chi trả kinh phí từ bán tín chỉ carbon trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đề nghị các cấp thẩm quyền cần sớm có phương án điều chỉnh lại đối tượng hưởng lợi từ bán tín chỉ carbon cho phù hợp với từng chủ rừng.

“Kinh phí nhiều, trong khi lực lượng bảo vệ rừng trực tiếp thu nhập còn thấp, công việc rất vất vả, nguy hiểm nên có một số người phải bỏ việc hoặc xin chuyển công tác. Nếu số tiền từ tín chỉ carbon được dùng để hỗ trợ thêm cho lực lượng bảo vệ rừng, người dân tham gia giữ rừng, xây dựng thêm nhiều mô hình sinh kế cho bà con gần rừng thì công tác quản lý, bảo vệ rừng sẽ hiệu quả và bền vững hơn”, ông Đỗ Minh Cừ – Giám đốc Ban quản lý rừng phòng hộ huyện Quảng Ninh, cho hay.

Chi trả kinh phí từ bán tín chỉ carbon rừng ở Quảng Bình: Quy định chồng chéo, chưa sát thực tế - Ảnh 2.

Tín chỉ carbon rừng được tạo ra từ các hoạt động dự án giảm phát thải nhà kính như giảm mất rừng và suy thoái rừng. Ảnh: Trần Anh

Trao đổi với PV, ông Nguyễn Văn Long – Chi Cục trưởng Chi cục Kiểm lâm kiêm Giám đốc Quỹ bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Quảng Bình, cho biết: “Số tiền bán tín chỉ carbon của địa phương đã phân bổ cho các đơn vị chủ rừng trên địa bàn khá lớn nhưng việc chi trả nguồn kinh phí này hiện gặp nhiều khó khăn. Cơ bản vướng quy định nguyên tắc chi không chồng chéo với các khoản chi khác của ngân sách nhà nước”.

Lãnh đạo Quỹ bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Quảng Bình đề nghị bổ sung các nội dung được chi trả cho chủ rừng là tổ chức tại Khoản 3 Điều 8 Nghị định 107/2022/NĐ-CP theo hướng: Đối với các hoạt động không thực hiện được theo các nội dung được chi trả tại Điểm b Khoản 3 Điều 8 Nghị định 107/2022/NĐ-CP hoặc có thực hiện một phần thì kinh phí còn lại được thực hiện theo các nội dung tại Khoản 2 Điều 65 Nghị định số 156/2018/NĐ-CP của Chính phủ.

Theo quy định của Nghị định 107/2022/NĐ-CP, điều kiện để được hỗ trợ phát triển sinh kế là cộng đồng phải có đăng ký tham gia hoạt động quản lý rừng, thỏa thuận tham gia hoạt động quản lý rừng với công ty. Tuy nhiên, thực tế ở Quảng Bình nhiều đơn vị lâm nghiệp bảo vệ rừng tự nhiên không có người dân tham gia nên việc hỗ trợ sinh kế không thực hiện được hoặc nếu đủ điều kiện để hỗ trợ cũng chưa giải ngân được.

Quảng Bình hiện có hơn 591.000 ha rừng, trong đó có 469.961 ha rừng tự nhiên. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 68,70%, đứng thứ hai cả nước. Diện tích rừng tự nhiên của tỉnh được chi trả cho việc giảm phát thải là 469.317 ha, với số tiền hơn 235 tỷ đồng, bình quân số tiền chi trả trên đơn vị diện tích là 170.000 đồng/ha.


Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *